Khuê Trần – Theo lý thuyết truyền thống, trẻ em được giả định có thể nhận thức rõ giới tính của mình khi lên 6. Tuy nhiên, nếu một đứa trẻ chệch khỏi giới tính được ấn định lúc lọt lòng hay chối bỏ các quy chuẩn về giới, chúng lại bị xem là chưa thể nhận thức về giới tính của mình. Hiện trong giới học giả lẫn không gian bình luận xã hội, một câu hỏi được đặt ra: liệu trẻ có thể nhận biết giới tính của chúng khi còn ít tuổi hay không, và qua thời gian thì liệu các em có thay đổi suy nghĩ của mình như nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống? Ngày càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra, câu trả lời nằm ở chính các em.
Tôi sẽ bắt đầu với hai câu hỏi: đến mấy tuổi thì bạn nhận ra giới tính của mình, và bạn tự biết hay người khác chỉ bảo cho bạn? Tôi là giám đốc của một trong những trung tâm chuyên khoa hàng đầu tại Mỹ về sức khỏe tâm thần. Đến nay, trung tâm chúng tôi đã hoạt động được nửa thập kỷ, nhưng trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, số lượng gia đình tìm đến để hỏi về giới tính con cái họ mỗi tháng đều tăng đáng kể.
BBC gần đây đã đưa tin, số lượng trẻ em từ 10 tuổi trở xuống yêu cầu được hỗ trợ trong việc hành xử với cảm giác chuyển giới ở Anh cũng đã tăng gấp 4 lần trong vòng 6 năm qua.
Nguyên nhân chủ yếu đưa trẻ đến với trung tâm chúng tôi là do các em có xu hướng thể hiện: “Mọi người hiểu sai rồi, con không mang giới tính như mọi người nghĩ đâu”, hay “Con không muốn tuân theo những quy tắc quanh mình về việc con trai phải ra dáng như thế nào và con gái phải theo kiểu ra sao”.
BBC gần đây đã đưa tin, số lượng trẻ em từ 10 tuổi trở xuống yêu cầu được hỗ trợ trong việc hành xử với cảm giác chuyển giới ở Anh cũng đã tăng gấp 4 lần trong vòng 6 năm qua.
Nguyên nhân chủ yếu đưa trẻ đến với trung tâm chúng tôi là do các em có xu hướng thể hiện: “Mọi người hiểu sai rồi, con không mang giới tính như mọi người nghĩ đâu”, hay “Con không muốn tuân theo những quy tắc quanh mình về việc con trai phải ra dáng như thế nào và con gái phải theo kiểu ra sao”.
Cảm nhận khác biệt về giới
Vài trẻ trong số này vô cùng khó chịu với những câu hỏi hóc búa xoay quanh giới tính của chúng; một số trẻ khác thì thoải mái hơn trong cuộc sống vượt ra ngoài khuôn khổ giới tính được định sẵn bởi văn hóa xung quanh chúng. Nhưng tất cả các em đều có điểm chung: đó là cảm nhận khác biệt về giới tính của bản thân. Tùy thuộc vào cách những người lớn gần gũi với trẻ cư xử ra sao trước những cảm xúc này mà chúng hoặc sẽ thỏa chí trong không gian tự do giới tính của mình, hoặc sẽ đau khổ vì sự không tương hợp giữa giới tính mà người khác kỳ vọng ở chúng với giới tính mà chúng biết bản thân mình thuộc về.
Trong nhiều trường hợp, cảm nhận về giới có thể đã bộc lộ ngay từ lúc các em lên 2, khi một bé gái giận dữ giật chiếc kẹp tóc diêm dúa khỏi mái tóc của mình hay một bé trai quấn chăn quanh đầu để giả làm mái tóc dài tung bay. Tuy nhiên, cảm nhận khác biệt về giới cũng có thể biểu thị muộn hơn. Như tất cả chúng ta, mỗi trẻ là một sự khác biệt.
Tất cả trẻ sinh ra đều được ấn định cho một giới tính khai sinh. Phần lớn các trẻ cảm thấy hòa hợp với sự ấn định đó, dẫu vậy một số ít lại không như thế. Các em là những trẻ thường hay thể hiện qua lời nói lẫn hành động rằng: “Con là con trai, không phải con gái”, hoặc “Con là con gái, chẳng phải con trai”, hoặc đặt ra một giới tính không là nam lẫn nữ mà nằm đâu đó ở giữa.
Vài trẻ trong số này vô cùng khó chịu với những câu hỏi hóc búa xoay quanh giới tính của chúng; một số trẻ khác thì thoải mái hơn trong cuộc sống vượt ra ngoài khuôn khổ giới tính được định sẵn bởi văn hóa xung quanh chúng. Nhưng tất cả các em đều có điểm chung: đó là cảm nhận khác biệt về giới tính của bản thân. Tùy thuộc vào cách những người lớn gần gũi với trẻ cư xử ra sao trước những cảm xúc này mà chúng hoặc sẽ thỏa chí trong không gian tự do giới tính của mình, hoặc sẽ đau khổ vì sự không tương hợp giữa giới tính mà người khác kỳ vọng ở chúng với giới tính mà chúng biết bản thân mình thuộc về.
Trong nhiều trường hợp, cảm nhận về giới có thể đã bộc lộ ngay từ lúc các em lên 2, khi một bé gái giận dữ giật chiếc kẹp tóc diêm dúa khỏi mái tóc của mình hay một bé trai quấn chăn quanh đầu để giả làm mái tóc dài tung bay. Tuy nhiên, cảm nhận khác biệt về giới cũng có thể biểu thị muộn hơn. Như tất cả chúng ta, mỗi trẻ là một sự khác biệt.
Tất cả trẻ sinh ra đều được ấn định cho một giới tính khai sinh. Phần lớn các trẻ cảm thấy hòa hợp với sự ấn định đó, dẫu vậy một số ít lại không như thế. Các em là những trẻ thường hay thể hiện qua lời nói lẫn hành động rằng: “Con là con trai, không phải con gái”, hoặc “Con là con gái, chẳng phải con trai”, hoặc đặt ra một giới tính không là nam lẫn nữ mà nằm đâu đó ở giữa.
Những trẻ khác - những em thấy ổn với giới tính được ấn định trên giấy khai sinh nhưng lại không thích thú mấy với việc phải đáp ứng các kì vọng về giới - có thể sẽ vui vẻ tham gia vào những hoạt động khiến chúng thấy thích nhất, mặc quần áo chúng ưng mắt nhất và kết bạn với những trẻ mà chúng chơi hợp nhất, cho đến khi bị giới hạn hoặc khống chế bởi những tác nhân xã hội trong môi trường sống. Chẳng hạn, khi một ông bố nói với con trai mình rằng bé không được sơn móng tay khi ra ngoài, hay một chuyên gia tư vấn khuyên phụ huynh hãy thu hết đồ chơi “con trai” khỏi con gái họ. Từ thời điểm đó, tâm lý của trẻ có thể sẽ chuyển từ niềm vui sướng không kìm nén sang trạng thái căng thẳng hoặc đau khổ nếu mọi người xung quanh trẻ tiếp tục nói với chúng một thông điệp rằng cách chúng đang thể hiện giới tính như vậy là không phù hợp và không thể chấp nhận được.
Một mâu thuẫn vô lý
Ngày nay, trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần và xã hội nói chung, một cuộc tranh luận đang diễn ra với câu hỏi: liệu trẻ em có thể nhận biết giới tính của mình khi còn ít tuổi hay không, và qua thời gian thì liệu các em có thay đổi suy nghĩ của mình như nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống? Trớ trêu thay, nếu thử làm một cuộc nghiên cứu sâu trong giới học thuật phương Tây về đề tài phát triển giới tính ở trẻ nhỏ, điển hình như các công trình của Robert Stoller hay Eleanor Maccoby hoặc Sigmund Freud, chúng ta sẽ thấy đang có một sự mâu thuẫn.
Theo lý thuyết truyền thống, trẻ em được giả định rằng chúng nhận thức được giới tính của mình khi được 6 tuổi. Việc nhận biết này dựa trên: (i) giới tính được xác định lúc chào đời, (ii) nhận thức sơ khai của chúng về sự ấn định trên, (iii) quá trình tương tác xã hội góp phần định hướng trẻ về giới tính của chúng, và (iv) sự xác tín theo thời gian về tính ổn định của bản dạng giới cá nhân. Tuy nhiên, nếu một đứa trẻ chệch khỏi giới tính được ấn định từ khi mới chào đời hay chối bỏ các quy tắc về giới vốn luôn được định sẵn trong quá trình tương tác với xã hội, chúng lại bị xem là còn quá nhỏ nên chưa thể nhận thức về giới tính của mình, hiện chỉ đang nhầm lẫn về giới hoặc gặp phải tình trạng rối loạn giới tính.
Dựa trên logic này, nếu là người hợp giới (cisgender), bạn hoàn toàn có năng lực nhận biết giới tính của chính mình; nhưng nếu là người chuyển giới hoặc không tuân theo khuôn khổ là nam hoặc nữ (gender-nonconforming) thì bạn lại không được xem là có khả năng nhận biết.
Tuy nhiên, một cuộc khảo sát trên diện rộng đối với người chuyển giới trưởng thành được tiến hành ở Mỹ đã cho thấy, một tỷ lệ lớn người được hỏi cho biết từ khi còn nhỏ đã nhận thức rõ giới tính thật của mình – chỉ là họ che dấu điều đó vì sợ kỳ thị từ xã hội trong những năm tháng thơ ấu. Vì vậy, chúng ta có thể nói trẻ có biểu hiện khác biệt về giới rất có thể đã biết về giới tính của mình và thật sự nhận thức được điều đó từ khi còn rất nhỏ.
Ngày nay, trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần và xã hội nói chung, một cuộc tranh luận đang diễn ra với câu hỏi: liệu trẻ em có thể nhận biết giới tính của mình khi còn ít tuổi hay không, và qua thời gian thì liệu các em có thay đổi suy nghĩ của mình như nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống? Trớ trêu thay, nếu thử làm một cuộc nghiên cứu sâu trong giới học thuật phương Tây về đề tài phát triển giới tính ở trẻ nhỏ, điển hình như các công trình của Robert Stoller hay Eleanor Maccoby hoặc Sigmund Freud, chúng ta sẽ thấy đang có một sự mâu thuẫn.
Theo lý thuyết truyền thống, trẻ em được giả định rằng chúng nhận thức được giới tính của mình khi được 6 tuổi. Việc nhận biết này dựa trên: (i) giới tính được xác định lúc chào đời, (ii) nhận thức sơ khai của chúng về sự ấn định trên, (iii) quá trình tương tác xã hội góp phần định hướng trẻ về giới tính của chúng, và (iv) sự xác tín theo thời gian về tính ổn định của bản dạng giới cá nhân. Tuy nhiên, nếu một đứa trẻ chệch khỏi giới tính được ấn định từ khi mới chào đời hay chối bỏ các quy tắc về giới vốn luôn được định sẵn trong quá trình tương tác với xã hội, chúng lại bị xem là còn quá nhỏ nên chưa thể nhận thức về giới tính của mình, hiện chỉ đang nhầm lẫn về giới hoặc gặp phải tình trạng rối loạn giới tính.
Dựa trên logic này, nếu là người hợp giới (cisgender), bạn hoàn toàn có năng lực nhận biết giới tính của chính mình; nhưng nếu là người chuyển giới hoặc không tuân theo khuôn khổ là nam hoặc nữ (gender-nonconforming) thì bạn lại không được xem là có khả năng nhận biết.
Tuy nhiên, một cuộc khảo sát trên diện rộng đối với người chuyển giới trưởng thành được tiến hành ở Mỹ đã cho thấy, một tỷ lệ lớn người được hỏi cho biết từ khi còn nhỏ đã nhận thức rõ giới tính thật của mình – chỉ là họ che dấu điều đó vì sợ kỳ thị từ xã hội trong những năm tháng thơ ấu. Vì vậy, chúng ta có thể nói trẻ có biểu hiện khác biệt về giới rất có thể đã biết về giới tính của mình và thật sự nhận thức được điều đó từ khi còn rất nhỏ.
Thông điệp từ não bộ và tâm trí
Một số nghiên cứu và quan sát gần đây – điển hình như báo cáo năm 2013 từ Đại học Amsterdam (Hà Lan) - cho thấy sự tồn tại của một nhóm trẻ mà chúng tôi thường gọi bằng thuật ngữ chuyên ngành là dứt khoát, thôi thúc và thường trực trong cách chúng khẳng định giới tính cảm nhận khác với giới tính sinh học của mình. Điều này không phụ thuộc vào bộ phận vùng kín giữa hai chân chúng hay giới tính được người lớn gán cho. Thay vào đó, nó được dẫn dắt bởi những thông điệp được phát đi từ chính não bộ và tâm trí các em.
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đang được tiến hành nhằm xác định các nguyên nhân tâm sinh lý có thể đã hình thành nên những bản dạng giới khác nhau như chúng ta đang thấy. Tuy nhiên, ít nhất vào lúc này, ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy rõ ràng nhiễm sắc thể giới tính và cơ quan sinh dục không phải là chỉ dấu để trẻ chuyển giới xác định giới tính của chúng.
Hiện tại, ngày càng có thêm các trung tâm nhi khoa áp dụng mô hình thừa nhận giới tính mà trẻ tự khẳng định. Theo đó, trẻ được tạo cơ hội tự do trải nghiệm và khám phá giới tính theo cách chúng tự cảm nhận, đồng thời các quy trình đánh giá về giới cũng được phát triển dựa trên nguyên tắc: “Nếu lắng nghe trẻ nói, bạn sẽ khám phá ra giới tính của các em. Chúng ta không có quyền áp đặt mà các em mới là người quyết định.”
Một số nghiên cứu và quan sát gần đây – điển hình như báo cáo năm 2013 từ Đại học Amsterdam (Hà Lan) - cho thấy sự tồn tại của một nhóm trẻ mà chúng tôi thường gọi bằng thuật ngữ chuyên ngành là dứt khoát, thôi thúc và thường trực trong cách chúng khẳng định giới tính cảm nhận khác với giới tính sinh học của mình. Điều này không phụ thuộc vào bộ phận vùng kín giữa hai chân chúng hay giới tính được người lớn gán cho. Thay vào đó, nó được dẫn dắt bởi những thông điệp được phát đi từ chính não bộ và tâm trí các em.
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đang được tiến hành nhằm xác định các nguyên nhân tâm sinh lý có thể đã hình thành nên những bản dạng giới khác nhau như chúng ta đang thấy. Tuy nhiên, ít nhất vào lúc này, ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy rõ ràng nhiễm sắc thể giới tính và cơ quan sinh dục không phải là chỉ dấu để trẻ chuyển giới xác định giới tính của chúng.
Hiện tại, ngày càng có thêm các trung tâm nhi khoa áp dụng mô hình thừa nhận giới tính mà trẻ tự khẳng định. Theo đó, trẻ được tạo cơ hội tự do trải nghiệm và khám phá giới tính theo cách chúng tự cảm nhận, đồng thời các quy trình đánh giá về giới cũng được phát triển dựa trên nguyên tắc: “Nếu lắng nghe trẻ nói, bạn sẽ khám phá ra giới tính của các em. Chúng ta không có quyền áp đặt mà các em mới là người quyết định.”
Để trẻ tự khám phá và biểu lộ
Điều này khiến nhiều người lớn lo lắng. Bởi từ trước đến nay, chúng ta vẫn luôn được bảo giới tính là thứ vững như bàn thạch được xác định không phải bởi đứa trẻ mà dựa trên đánh giá từ các chuyên gia y tế vào lúc đứa trẻ chào đời: con trai có dương vật, con gái có âm hộ. Thế nên hoang mang và lo lắng cũng là phản ứng tự nhiên khi truyền thống đó bị thách thức bởi tiếng nói từ con trẻ - những con người non nớt hầu như chưa có kinh nghiệm sống lại đang nói với chúng ta rằng chúng ta đã lầm to. Hơn nữa, lỡ như quan điểm của đứa trẻ là sai và chúng ta nương theo chúng, nhiều phụ huynh lo ngại điều đó sẽ gây ra một mớ hỗn độn khi trẻ không ngừng thay đổi qua lại từ giới này sang giới kia để rồi dẫn đến một lối sống lầm lạc.
Tuy nhiên, hãy đặt mình ở một góc nhìn khác. Qua thời gian, nếu chúng ta thôi áp đặt phản ứng và cảm xúc của chính mình lên trẻ, mà thay vào đó tạo ra một không gian tự do để trẻ biểu lộ, giới tính mà bản thân chúng biết mình thuộc về dần dần sẽ thể hiện ra rõ nét. Từ đó chúng ta có thể cho trẻ cơ hội chuyển đổi sang giới tính mà trẻ cảm thấy chuẩn nhất với chúng. Tiếp đến có thể là lựa chọn sử dụng thuốc ức chế dậy thì nhằm trì hoãn giai đoạn này diễn ra, và sau đó dùng hooc-môn chuyển giới để giúp cơ thể trẻ khớp hơn với tâm hồn của chúng.
Điều này khiến nhiều người lớn lo lắng. Bởi từ trước đến nay, chúng ta vẫn luôn được bảo giới tính là thứ vững như bàn thạch được xác định không phải bởi đứa trẻ mà dựa trên đánh giá từ các chuyên gia y tế vào lúc đứa trẻ chào đời: con trai có dương vật, con gái có âm hộ. Thế nên hoang mang và lo lắng cũng là phản ứng tự nhiên khi truyền thống đó bị thách thức bởi tiếng nói từ con trẻ - những con người non nớt hầu như chưa có kinh nghiệm sống lại đang nói với chúng ta rằng chúng ta đã lầm to. Hơn nữa, lỡ như quan điểm của đứa trẻ là sai và chúng ta nương theo chúng, nhiều phụ huynh lo ngại điều đó sẽ gây ra một mớ hỗn độn khi trẻ không ngừng thay đổi qua lại từ giới này sang giới kia để rồi dẫn đến một lối sống lầm lạc.
Tuy nhiên, hãy đặt mình ở một góc nhìn khác. Qua thời gian, nếu chúng ta thôi áp đặt phản ứng và cảm xúc của chính mình lên trẻ, mà thay vào đó tạo ra một không gian tự do để trẻ biểu lộ, giới tính mà bản thân chúng biết mình thuộc về dần dần sẽ thể hiện ra rõ nét. Từ đó chúng ta có thể cho trẻ cơ hội chuyển đổi sang giới tính mà trẻ cảm thấy chuẩn nhất với chúng. Tiếp đến có thể là lựa chọn sử dụng thuốc ức chế dậy thì nhằm trì hoãn giai đoạn này diễn ra, và sau đó dùng hooc-môn chuyển giới để giúp cơ thể trẻ khớp hơn với tâm hồn của chúng.
Nếu lắng nghe trẻ nói, bạn sẽ khám phá ra giới tính của TRẺ. Chúng ta không có quyền áp đặt mà các em mới là người quyết định.
Ngược lại, nếu chúng ta không cho trẻ cơ hội, chúng có thể cảm thấy mình bị ngăn cấm, thất vọng, chán nản, giận dữ, và mất đi sức sống – những cảm xúc thường gặp trong các biểu hiện ở trẻ chuyển giới và trẻ không tuân theo khuôn khổ giới truyền thống của nam và nữ. Gốc rễ của tình trạng trên không xuất phát từ giới tính của trẻ mà do phản ứng tiêu cực từ môi trường xung quanh trước giới tính cảm nhận của các em.
Trái với nhiều suy đoán và quan ngại, khi phụ huynh thừa nhận và để trẻ sống thật với giới tính của mình thay vì phủ nhận hoặc đàn áp biểu hiện khác với giới tính được ấn định, các biểu hiện tâm lý tiêu cực nêu trên đều thuyên giảm hoặc biến mất hoàn toàn. Do đó, giờ đây đã đến lúc chúng ta nên xem giới tính trẻ cảm nhận là mấu chốt hóa giải, thay vì là vấn đề cần phải xử lý. Từ góc nhìn này, trẻ không chỉ có quyền tự do cảm nhận mà chúng còn là người xác quyết giới tính của chính mình.
Trái với nhiều suy đoán và quan ngại, khi phụ huynh thừa nhận và để trẻ sống thật với giới tính của mình thay vì phủ nhận hoặc đàn áp biểu hiện khác với giới tính được ấn định, các biểu hiện tâm lý tiêu cực nêu trên đều thuyên giảm hoặc biến mất hoàn toàn. Do đó, giờ đây đã đến lúc chúng ta nên xem giới tính trẻ cảm nhận là mấu chốt hóa giải, thay vì là vấn đề cần phải xử lý. Từ góc nhìn này, trẻ không chỉ có quyền tự do cảm nhận mà chúng còn là người xác quyết giới tính của chính mình.
Diane Ehrensaft hiện là Trưởng khoa Sức khỏe Tâm thần tại Trung tâm Giới tính Nhi và Trẻ Vị thành niên thuộc Đại học California (San Francisco, Mỹ).
*****
Nguồn bài viết & ảnh: The Conversation
Nguồn bài viết & ảnh: The Conversation